Tú Xương hay Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng – trữ tình nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại cho đất nước nhiều tác phẩm có giá trị đến ngày nay. Bài viết hôm nay, LVT Education xin chia sẻ TOP 55+ bài thơ Tú Xương (Trần Tế Xương) “bất tử” cùng thời gian. Hãy dành thời gian lắng lòng để cảm nhận bạn nhé !
Bài viết cùng chủ đề:
Trần Tế Xương tên thật là Trần Duy Uyên, quen gọi là Tú Xương, tự là Mặc Trai, hiệu là Mộng Tích, đến khi thi Hương mới lấy tên là Trần Tế Xương. Ông sinh ngày 10-8-1870 tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Ðịnh và mất ngày 20-1-1907 ở làng Ðịa Tứ cùng huyện.
Tú Xương là một người rất thông minh, tính tình thích trào lộng. Có nhiều giai thoại kể về cá tính của ông.
Cuộc đời Tú Xương lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú Xương.
Ông cưới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn từ một cô gái quê Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ. Tiếng có miếng không, gặp hay chăng chớ trở thành bà Tú tần tảo một nắng hai sương. Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Ông Tú vẫn có thể có tiền để ăn chơi nhưng gia cảnh nghèo túng, việc nhà trông cậy vào một tay bà Tú.
Có thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia đình là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác của Tú Xương.
Chân dung nhà thơ Tú Xương
Trần Tế Xương cả đời hầu như làm thơ trào phúng, ông triệt để khai thác đề tài thi cử, những điều mắt thấy tai nghe. Tú Xương dám vạch trần, đả kích thẳng tay sự tha hóa của những bộ phận xã hội trước ma lực của đồng tiền của tầng lớp nho sĩ cuối mùa. Bên cạnh thơ trào phúng, Tú Xương còn để lại những bài thơ trữ tình thắm thiết. Có người đã tôn vinh tác giả Trần Tế Xương là “nhà thơ thiên tài”, tác phẩm Trần Tế Xương để lại cho nền văn học dân tộc quả là khiến người ta phải nể phục.
Những nỗi đau buồn, phẫn uất riêng của nhà thơ một người giàu lòng yêu thương luôn thao thức với đời đã hòa chung với nỗi đau của dân tộc thời bấy giờ. Hầu hết nội dung trong tác phẩm của ông là vĩnh hằng trong văn chương dân tộc. Trong sự nghiệp cầm bút của mình ông để lại cho nền văn học dân tộc với số lượng tác phẩm trên 150 bài thơ đủ các thể loại đều nói về khoa cử, nho học và cảnh nghèo khó của dân trong hoàn cảnh đất nước.
Ông còn nổi tiếng là ngòi bút trào phúng, châm biết phê phán chế độ phong kiến mục nát, quan lại, tay sai cho giặc. Đặc biệt, Tú Xương còn khai thác thêm đề tài viết về vợ của mình có bài thơ “Thương vợ” để bày tỏ tình yêu thương với người vợ đã chịu thương chịu khó lo cho gia đình. Tế Xương mượn hình ảnh đó để ca ngợi hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn tần tảo, thương chồng, thương con nhẫn nại, quên mình.
Những tác phẩm tiêu biểu:
Tác giả đã có tới khoảng trên 100 bài, chủ yếu là thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ (thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát), ngoài ra có một số bài văn tế, phú, câu đối.
Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ – nhà xuất bản Văn hóa
Thơ văn Trần Tế Xương – nhà xuất bản Văn học (1970)
Tú Xương thi tập do nhà sách Phúc Chí – 95 Hàng Bồ, Hà Nội
Trông dòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương)
Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán (1931 – sau có tái bản)
Có thể bạn quan tâm:
Tú Xương mất sớm, ông chua đi trọn con đường sáng tác của mình. Nhưng những tác phẩm Tú Xương để lại có tác dụng như một bản cáo trạng đanh thép lên án xã hội thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh đó, ông cũng là một nhà thơ trữ tình với nhiều bài thơ đặc sắc.
Thơ văn của tác giả Tú Xương cho thấy đây là một nhà thơ trào phúng xuất xắc, một bậc “thần thơ, thánh chữ”. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của tác giả Trần Tế Xương chính là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình để thể hiện được nỗi lòng của mình với con người, đất nước Việt Nam.
Thơ trào phúng của Tú Xương
Hà Nam danh giá nhất ông còTrông thấy ai ai chẳng dám hoHai mái trống toang đành chịu dộtTám giờ chuông đánh phải nằm coNgười quên mất thẻ âu trời cãiChó chạy ra đường có chủ loNgớ ngẩn đi xia may vớ đượcChuyến này ắt hẳn kiếm ăn to!
Người bảo ông điên, ông chẳng điên,Ông thương ông tiếc hoá ông phiền.Kẻ yêu người ghét hay gì chữ,Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền.Ở bể ngậm ngùi cơn tới lạch,Được voi tấp tểnh lại đòi tiên.Khi cười khi khóc khi than thở,Muốn bỏ văn chương học võ biền!
Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,Bốn con làm lính, bố làm quan.Câu thơ, câu phú, sưu cùng thuế,Nghiên mực, nghiên son, tổng với làng.Nước quạt chưa xong, con nhảy ngựa,Trống hầu vừa dứt, bố lên thang.Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ,Đem chuyện trăm năm giở lại bàn.
Một trà, một rượu, một đàn bàBa cái lăng nhăng nó quấy taChừa được thứ nào hay thứ đóCó chăng chừa rượu với chừa tràVịnh Khoa thi hương (Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)Nhà nước ba năm mở một khoa,Trường Nam thi lẫn với trường Hà.Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,Ậm ọe quan trường miệng thét loa.Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,Váy lê quét đất mụ đầm ra.Nhân tài đất Bắc nào ai đó,Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Có đất nào như đất ấy không?Phố phường tiếp giáp với bờ sông.Nhà kia lỗi phép con khinh bố,Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.Keo cú người đâu như cứt sắt,Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,Có đất nào như đất ấy không?
Đêm qua anh đến chơi đâyGiày chân anh dận, ô tay anh cầmRạng ngày sang trống canh nămAnh dậy, em hãy còn nằm trơ trơHỏi ô, ô mất bao giờHỏi em, em cứ ậm ờ không thưaChỉn e rầy gió mai mưaLấy gì đi sớm về trưa với tình?
Vì chưng chẳng có, hoá thân hèn,Hổ với anh em, chúng bạn quen.Thuở trước chơi bời còn quyến luyến,Bây giờ đi lại dám mon men!Giàu sang, âu yếm, tình quen thuộc,Bần tiện, thờ ơ, dạ bạc đen.Ví khiến trong tay tiền bạc cóNói dơi nói chuột, chán người khen.
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông,Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không!Một tuồng rách rưới con như bố,Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng.Đất biết bao giờ sang vận đỏ?Trời làm cho bõ lúc chơi ngông!Gần chùa gần cảnh ta tu quách,Cửa Phật quanh năm sẵn áo sồng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.Phen này ông quyết đi buôn cối,Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu?Phen này, ắt hẳn gà ăn bạc,Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:Đứa thì mua tước, đứa mua quan.Phen này ông quyết đi buôn lọng,Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.Phố phường chật hẹp, người đông đúc,Bồng bế nhau lên nó ở non.
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:Chúc cho khắp hết ở trong đời.Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước,Sao được cho ra cái giống người.
1.Ở phố Hàng Nâu có phỗng sànhMắt thời thao láo, mặt thời xanhVuốt râu nịnh vợ, con bu nóQuắc mắt khinh đời, cái bộ anhBài bạc kiệu cờ cao nhất xứRượu chè trai gái đủ tam khoanhThế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏiCứ việc ăn chơi, chẳng học hành
2.Lúc túng toan lên bán cả trờiTrời cười thằng bé nó hay chơiCho hay công nợ âu là thếMà vẫn phong lưu suốt cả đờiTiền bạc phó cho con mụ kiếmNgựa xe chẳng thấy lúc nào ngơiCòn dăm ba chữ nhồi trong bụngKhéo khéo không mà nó cũng rơi.
Tri phủ Xuân Trường được mấy niênNhờ trời hạt ấy cũng bình yên.Chữ “thôi” chữ “cứu” không phê đến,Ông chỉ quen phê một chữ “tiền”!
Thầy thầy tớ tớ, phố xênh xang,Thoạt nhác trông ra ngỡ cóc vàng.Kiện hết sở Tuần, vô sở SứKhi thì thầy số, lúc thầy lang.Công nợ bớp bơ hình chúa Chổm,Phong lưu đài các giống ông hoàng.Phong lưu như thế phong lưu mãi,Điếu ống, xe dài độ mấy gang?
>>>Đừng bỏ lỡ: TOP 55+ bài thơ trào phúng hay, độc đáo của các nhà thơ nổi tiếng
Bên cạnh thơ trào phúng, Tú Xương còn để lại những bài thơ trữ tình thắm thiết. Có người đã tôn vinh tác giả Trần Tế Xương là “nhà thơ thiên tài”, tác phẩm Trần Tế Xương để lại cho nền văn học dân tộc quả là khiến người ta phải nể phục.
Bài thơ : “Thương vợ” của Tú Xương
Quanh năm buôn bán ở mom sông,Nuôi đủ năm con với một chồng.Lặn lội thân cò khi quãng vắng,Eo sèo mặt nước buổi đò đông.Một duyên, hai nợ, âu đành phận,Năm nắng, mười mưa, dám quản công.Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:Có chồng hờ hững cũng như không!
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợTiếng có miếng không, gặp chăng hay chớMặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mườiTrong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợGần xa nô nức, lắm gái nhiều traiSớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớÔng tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâuAnh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợThế mà:Mình bỏ mình đi, mình không chịu ởChẳng nói chẳng rằng, không than không thở.Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?Thôi thôiChết quách yên mồSống càng nặng nợChữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hayDuyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡMình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng HồTớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ
Sông kia rày đã nên đồng,Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Kể suốt thế đố ai bằng anh Mán,Trải mùi đời, khôn chán giả làm ngây.Hổ sinh ra lúc thời này,An thân mệnh thế, giấu tay anh hùng.Không danh cho dễ vẫy vùng,Mình không phú quí, mắt không vương hầu.Khi để chỏm, lúc cạo đầu,Nghêu ngao câu hát nửa tàu nửa ta.Không đội nón, chịu màu da dãi nắng,Chẳng nhuộm răng, để trắng để cười đời.Chốn quyền môn luồn cúi mặc ai ai,Ngoài cương toả thảnh thơi ai đã biết?Chỉ ấm ớ giả câm giả điếc,Cứ vui tràn khi hát khi ngâm.Trên đời mấy mặt tri âm!
Khách hỏi nhà ông đếnNhà ông đã bán rồiVợ lăm le ở vúCon tấp tểnh đi bồiAnh trói voi bỏ rọĐời nào lợn cạo ngôiNgười bảo ông cũng mãiÔng cũng thế này thôi
Trải mấy mươi năm vẫn thế ru?Rằng khôn, rằng dại, lại rằng ngu?Những là thương cả cho đời bạc,Nào có căm đâu đến kẻ thù.No ấm chưa qua vành mẹ đĩ,Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu.Phen này có dễ trời xoay lại,Thằng bé con con đã chán cù.
Ta nhớ người xa cách núi sông,Người xa, xa lắm, nhớ ta không?Sao đang vui vẻ ra buồn bã,Vừa mới quen nhau đã lạ lùng.Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng,Khi riêng riêng cả đến tình chung.Tương tư lọ phải là mưa gió,Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.
Đêm qua trằn trọc không yênVắng người cùng bạn bút nghiên sao đành!Ngựa xe là thói tỉnh thànhNào người vui thú học hành là ai?Nhớ khi thảo sách học bàiTựa trong khóm trúc, dạo ngoài hồ senNgậm ngùi dưới nguyệt trước đènTa vui ai biết, ta phiền ai hay?Của trời như nước như mâyLũ ta như dại như ngây như khờĐi đâu một bước một chờVắng nhau một khắc một giờ khôn khuâyTháng năm Tết đến sau nàyCùng ai lên núi hái cây xương bồ?Há rằng thiếu níp không bồTri âm đã vắng, Bồng Hồ cũng thôi!Qua năm hương hội đến rồiCùng ai vượt bể đến nơi kinh kỳ?Dẫu cho vui thú Phụng TrìKhi vui mà vắng cố tri thêm sầuBạn đàn chưa dễ tìm nhauBạn nghiên bạn bút có đâu được nhiều!
Mệnh sao bạc thế hỡi em ơi!Hai bốn hai lăm cũng một đờiBảng hổ vừa treo, cầu Thước bắcCành thoa đã rụng, phím đàn rơiCây tương tư héo, chồng rầu rĩThuyền độ sinh đưa, Phật rước mờiNhững muốn dựng bia toan kỷ niệmLòng anh thương xót, xiết bao nguôi!
Sang tuần tháng bảy tiết mưa ngâu,Nắng mãi thì mưa cũng phải lâu.Vạc nọ cầm canh thay trống mõ,Rồng kia phun nước tưới hoa mầu.Ì ào tiếng học nghe không rõ,Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu.Ông lão nhà quê tang tảng dậy,Bảo con mang đó chớ mang gầu.
Thua bạc nhà đi với mẹ nhà,Bệnh gì chẳng bệnh, bệnh tim la!Nay đi phố Giấy, mai đầu hát,Khi ở sông Thương, lúc tỉnh Hà.Đeo tiếng khoa danh cho thế mỉa,Cực lòng cha mẹ để con ra!Nam mô cứu khổ tiêu tai nạnNhờ lượng Quan Âm, đức Phật Bà!
Bỗng thấy chiêm bao thấy những ngườiThấy người nói nói lại cười cườiTỉnh ra lại tiếc người trong mộngMộng thế thì bằng tỉnh mấy mươi
Cha kiếp sinh ra phận má hồng!Khéo thay một nỗi lấy chung chồng.Mười đêm chị giữ mười đêm cả,Suốt tháng em nằm suốt tháng không.Hầu hạ đã cam phần cát luỹ,Nhặt khoan còn ỏm tiếng Hà Đông.Ai về nhắn bảo đàn em nhé,Có ế thì tu, chớ chớ chung!
Thế sự đua nhau nói dại khôn,Biết ai là dại, biết ai khôn.Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,Dại chốn vẵn chương, ấy dại khôn.Này kẻ nên khôn đều có dại,Làm người có dại mới nên khôn.Cái khôn ai cũng khôn là thế,Mới biết trần gian kẻ dại khôn.
Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tú Xương cùng tuyển tập thơ Tú Xương (Trần Tế Xương) “bất tử” cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học (wiki), với hơn nửa thế kỷ cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu. Ông là con trai Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, thuộc gia đình nổi tiếng hiếu học. Giáo sư giữ nhiều vai trò quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2010.
Trông chờ hay chông chờ đúng chính tả vẫn là phân vân của nhiều người…
Ao nuôi tôm bằng bạt là mô hình được áp dụng phổ biến ở Việt…
Giãy dụa hay giãy giụa đúng chính tả tưởng chừng đây là một câu hỏi…
Nước máy, nước sạch đang dần thay thế cho nước giếng khoan trên mọi vùng…
Rò rỉ hay Dò rỉ là hai từ dễ bị nhầm lẫn bởi phát âm chữ…
Từ xa xưa, con người đã sử dụng nước mưa để uống và sinh hoạt.…
This website uses cookies.