Nguyễn Công Trứ – một kẻ sĩ, một nhà thơ lớn, độc đáo vào loại có một không hai trong văn học Việt Nam. Ông để lại một sự nghiệp sáng tác hầu như hoàn toàn bằng chữ Nôm. Ngôn ngữ thơ của ông rõ ràng dễ hiểu, gần gũi với quần chúng đông đảo và đặc biệt đậm chất xứ Nghệ. Cùng LVT Education chia sẻ tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ, thơ Nôm Nguyễn Công Trứ còn mãi với thời gian sau đây để có thêm nhiều phút giây trải nghiệm thú vị bạn nhé !
Bài viết cùng chủ đề:
Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm hai mươi bốn tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn, Nghệ An, sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình.
Khi quân đội Tây Sơn ra Bắc chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn xướng nghĩa cần vương chống lại, không thành, ông đưa gia đình về quê mở trường dạy học. Nguyễn Huệ mấy lần mời ra làm quan, ông đều từ chối.
Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan quản Nội thị Cảnh Nhạc bá, họ Nguyễn, người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Gia đình Nguyễn Công Trứ có sáu anh em, ba trai, ba gái, có một bà rất thông minh, giỏi thơ văn, người đương thời gọi là Năng văn nữ sĩ. Năm mười chín tuổi, chồng chết, bà nhất định không chịu tái giá, bỏ nhà đi tu, được Minh Mệnh ban cho danh hiệu “Trinh tiết khả phong”.
Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong cảnh nghèo khổ. Khi nhà Nguyễn đang tích cực củng cố địa vị thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định, Nguyễn Công trứ hăm hở đi học đi thi. Năm 1819, ông thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan. Bấy giờ ông đã bốn mươi mốt tuổi.
Năm 1820 Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1824), Phủ thừa phủ Thừa Thiên (1825), Tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ hình (năm 1826). Năm 1828, ông được thăng Hữu tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ, chuyên coi việc khai khẩn đất hoang. Năm 1832, ông được bổ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An…
Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Cũng năm này, ông tròn bảy mươi tuổi ta, Nguyễn Công Trứ xin về hưu, nhưng Thiệu Trị không cho. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông được về hưu hẳn.
Chân dung nhà thơ Nguyễn Công Trứ
– Sáng tác của Nguyễn Công Trứ hầu hết bằng chữ Nôm và bị thất lạc nhiều. Hiện nay sưu tầm được khoảng 150 bài gồm thơ, ca trù, phú.
– Ngoài ra ông còn có một số tác phẩm thơ văn chữ Hán.
– Thơ văn ông bao hàm nội dung khá phức tạp, kết tinh trạng thái ý thức của một thế hệ nhà nho như Nguyễn Công Trứ. Nhưng tổng quát, thơ ông tập trung vào ba chủ đề chính:
* Ca Trù
*Thơ Nôm
Có thể bạn quan tâm:
Cùng LVT Education chia sẻ tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ hay nhất sau đây để cảm nhận rõ hơn tài năng cũng như bút pháp nghệ thuật của nhà thơ lớn bạn nhé !
Tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ hay nhất
Vũ trụ nội mạc phi phận sựÔng Hi Văn tài bộ đã vào lồngKhi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc ĐôngGồm thao lược đã nên tay ngất ngưởngLúc bình Tây, cờ đại tướngCó khi về Phủ doãn Thừa ThiênĐô môn giải tổ chi niênĐạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởngKìa núi nọ phau phau mây trắngTay kiếm cung mà nên dạng từ biGót tiên theo đủng đỉnh một đôi dìBụt cũng nực cười ông ngất ngưởngĐược mất dương dương người tái thượngKhen chê phơi phới ngọn đông phongKhi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùngKhông Phật, không tiên, không vướng tụcChẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, PhúNghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chungTrong triều ai ngất ngưởng như ông!
Thông minh nhất nam tử,Yếu vi thiên hạ kỳ.Trót sinh ra thời phải có chi chi,Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.Đố kị sá chi con Tạo,Nợ tang bồng quyết trả cho xong.Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,Làm cho rõ tu mi nam tử.Trong vũ trụ đã đành phận sự,Phải có danh mà đối với núi sông.Đi không chẳng lẽ về không?
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọcNợ tang bồng vay trả trả vayChí làm trai nam bắc đông tâyCho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bểNhân sinh thế thượng thuỳ vô nghệLưu đắc đan tâm chiếu hãn thanhĐã chắc ai rằng nhục rằng vinhMấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộCũng có lúc mây tuôn sóng vỗQuyết ra tay lèo lái trận cuồng phong.Chí những toan xẻ núi lấp sôngLàm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏĐường mây rộng thênh thênh cử bộNợ tang bồng trang trắng vỗ tay reoThảnh thơi thơ túi ruợu bầu.
Một lưng một vốc kém chi mô,Cho biết chanh chua khế cũng chua.Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối,Mà tham con giếc tiếc con rô.Trăm điều đổ tội cho nhà oản,Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.Khó bó cái khôn còn nói khéo,Dầu ai có quấy vấy nên hồ.
Đi không, há lẽ trở về không?Cái nợ cầm thư phải trả xong!Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệtTrót đem thân thế hẹn tang bồngĐã mang tiếng ở trong trời đấtPhải có danh gì với núi sôngTrong cuộc trần ai, ai dễ biết?Rồi ra mới rõ mặt anh hùng
Kẻ ghét song còn có kẻ ưa,Nghĩ đâu mà lựa được cho vừa.Khó giàu đã định thời không oán,Khôn dại đành hay há dám từ.Bể học dò nguồn cho chúng trẻ,Ngày nhàn vui chuyện với người xưa.Lâng lâng rũ rạch niềm nhân, ngã,Gẫm thú phồn hoa đáng thế chưa.
Ăn ở sao cho trải sự đời,Vừa lòng cũng khó, há rằng chơi?Nghe như chọc ruột, tai làm điếc,Giận đã căm gan, miệng mỉm cười.Bởi số chạy đâu cho khỏi số?Luỵ người nên nỗi phải chiều người.Mặc ai, chớ để điều ân oán,Chung cục thời chi cũng tại trời.
Kẻ về người ởBồi hồi thay lúc phân kỳKhéo quấy người hai chữ tình siLửa ly biệt bầng bầng không lúc nguội!Bát ngát trăm đường bối rốiBiệt thì dung dị, kiến thì nanTrót đa mang khúc hát cung đànNên dan díu mối tình chưa dứtSá nghĩ xa xôi nghìn dặm đấtTiếc công đeo đẳng mấy năm trờiKhi ra vào tiếng nói giọng cườiMột ngày cũng là người tri kỷSao nỡ để kẻ vui người tẻGánh tương tư riêng nặng bề bề?Thương thay người ở đôi quêNẻo đi thì nhớ, nẻo về thì thương!Tính sao cho vẹn trăm đường?
Nỗi nọ đường kia, xiết nói năng!Đêm nằm không ngủ, biết mần răng?Đầu ngành mấy tiếng chim kêu gióTrước điếm năm canh chó sủa giăngPhảng phất lòng quê khôn nén đượcMơ màng cuộc thế cũng cầm bằngĐêm gà eo óc, trời chưa rạngTình tự này ai biết hay chăng?
Lão trục thiếu lai ưng bất phóng,Nhục tuỳ vinh hậu định tu quân.Lò âm dương san sẻ bình phân,Con tạo hóa cầm cân nhiệm nhặt.Mới đó đỉnh mây còn ngắt ngắt,Phút đâu mái tuyết đã phau phau.Cái khoá dàm là giống ở đâu,Cứ lẽo đẽo cặp kè hiên cái.Đôi kẻ biết sao không tỉnh lại,Dẫu thiên hô vạn hoán cũng u ơ.Xót cho ta biết bao giờ.
Ơn chúa vun trồng kể xiết baoMột ngày càng một rấn lên caoLưng đeo đai bạc, sương nào nhuốm?Đầu đội tàn xanh, nắng chẳng vàoBuồng chất cháu con khôn xiết kểNhà nhiều quan khách dễ khuyên chàoKình thiên một cột giơ tay chốngDẫu gió lung lay cũng chẳng nao
Minh quân lương tướng tao phùng dịTài tử giai nhân tế ngộ nanTrai anh hùng gặp gái thuyền quyênTrong nhất kiến tình duyên như đãTỳ bà hữu hạnh phùng Tư mãQuân tử đa tình cánh khả lânNọ mấy người tài tử giai nhânDuyên chỉ thắm bỗng dần dần đưa lạiDầu nghìn dặm băng sơn quế hảiĐã tình duyên xe lại cũng nên gầnLiễu hoa vừa gặp chúa xuânChâu Trần nào có Châu Trần này hơnAnh hùng hà xứ bất giang sơn?
Tao ở nhà tao tao nhớ mi,Nhớ mi nên phải bước ra đi.Không đi mi nói răng không đến,Đến thì mi nói đến làm chi.Làm chi tao đã làm chi được,Làm được tao làm đã lắm khi.
Mười hai bến nước, một con thuyềnTình tự xa xôi, đố vẽ nên!Tự biệt nhiều lời so vắn giấyTương tư nặng gánh chứa đầy thuyềnRồi đây nỏ biết quên hay nhớTừ đó mà mang nợ với duyênTình ấy trăng kia như biết vớiChia làm hai nửa giọi hai bên!
Trời đất cho ta một cái tàiGiắt lưng dành để tháng ngày chơiDở duyên với rượu khôn từ chénTrót nợ cùng thơ phải chuốt lờiCờ sẵn bàn son xe ngựa đóĐàn còn phím trúc tính tình đâyAi say, ai tỉnh, ai thua đượcTa mặc ta mà ai mặc ai!
Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.Có giang sơn thì sĩ đã có tên,Từ Chu, Hán, vốn sĩ này là quý.Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghịĐạo lập thân phải giữ lấy cương thườngKhí hạo nhiên chí đại chí cươngSo chính khí đã đầy trong trời đất.Lúc vị ngộ, hối tàng nơi bồng tấtHiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh SằnXe bồ luân dù chưa gặp Thang, VănPhù thế giáo một vài câu thanh nghị.Cầm chính đạo để tịch tà cự bíHồi cuồng lan nhi chướng bách xuyênRồng mây khi gặp hội ưa duyênMang quách cả sở tồn làm sở dụng.Trong lang miếu ra tài lương đốngNgoài biên thuỳ rạch mũi Can TươngLàm sao cho bách thế lưu phươngTrước là sĩ, sau là khanh tướng.Kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung,Vũ trụ chi gian giai phận sự, nam nhi đáo thử thị hào hùng.Nước nhà yên mà sĩ được thung dungBấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng ThạchNăm ba chú tiểu đồng lếch thếchTiêu dao nơi hàn cốc thanh sơnNào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờnĐồ thích chí chất đầy trong một túi.Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tớiGẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanhNày này sĩ mới hoàn danh.
Ngẫm cho kỹ đến bất nhân là tạo vậtĐã sinh người lại hạn lấy nămKể chi thằng lên bẩy, đứa lên nămDẫu ba vạn sáu nghìn ngày là mấy chốc?Lại mang lấy lợi danh, vinh nhụcCuộc đời kia lắm lúc bi hoanE đến khi hoa rữa trăng tànXuân một khắc, dễ nghìn vàng đổi chác?Tế suy vật lý tu hành lạcAn dụng phù danh bạn thử thânSong bất nhân mà lại chí nhânHạn lấy tuổi để mà chơi lấyCuộc hành lạc bao nhiêu là lãi bấyNếu không chơi, thiệt ấy ai bù?Nghề chơi cũng lắm công phu!
Chém cha cái khó!Chém cha cái khó!Khôn khéo mấy ai ?Xấu xa một nó!Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.Kìa ai:Bốn vách tường mo,Ba gian nhà cỏ.Đầu kèo mọt đục vẽ sao,Trước cửa nhện giăng màn gió.Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.Đầu giường tre, mối dũi quanh co,Góc tường đất, giun đùn lố nhố.Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo,Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thuỷ mạc lờ mờ,Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương,Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ.Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó,Mỏng lưng xem cũng không giầu,Nhiều miệng lấy chi cho đủ.Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn,Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.Gâp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công ?Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.Láng giềng ít kẻ tới nhà,Thân thích chẳng ai nhìn họ.Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.Tất do thiên, âu phận ấy là thường,Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.Mới biết:Khó bởi tại trời,Giàu là cái số.Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Công Trứ cùng tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ “bất tử” cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !
>>>ĐỪNG BỎ LỠ: Thơ Bà Huyện Thanh Quan – tuyển tập những bài thơ hay nhất
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học (wiki), với hơn nửa thế kỷ cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu. Ông là con trai Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, thuộc gia đình nổi tiếng hiếu học. Giáo sư giữ nhiều vai trò quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2010.
Trông chờ hay chông chờ đúng chính tả vẫn là phân vân của nhiều người…
Ao nuôi tôm bằng bạt là mô hình được áp dụng phổ biến ở Việt…
Giãy dụa hay giãy giụa đúng chính tả tưởng chừng đây là một câu hỏi…
Nước máy, nước sạch đang dần thay thế cho nước giếng khoan trên mọi vùng…
Rò rỉ hay Dò rỉ là hai từ dễ bị nhầm lẫn bởi phát âm chữ…
Từ xa xưa, con người đã sử dụng nước mưa để uống và sinh hoạt.…
This website uses cookies.