Để có một vụ nuôi tôm năng suất cao, người nuôi cần hiểu và quản lý tốt các động vật trung gian trong hệ sinh thái ao nuôi tôm, vì chúng vừa có lợi vừa có hại cho sự phát triển của tôm. Trong bài viết này Đông Á xin giới thiệu top 4 loài động vật trung gian trong hệ sinh thái ao nuôi tôm để các bạn tham khảo.
Sinh vật phù du có nguồn gốc từ thực vật, gọi chung là thực vật phù du. Chúng đóng vai trò là “nhà máy đầu tiên” trong môi trường nước ao nuôi. Ngược lại với thực vật phù du là động vật phù du – sinh vật phù du có chứa thành phần động vật. Chúng được coi là “người tiêu dùng đầu tiên” trong chuỗi thức ăn của hệ sinh thái nước ao nuôi. Tuy nhiên, nếu chúng phát triển quá nhiều sẽ làm giảm lượng oxy hòa tan trong nước khiến tôm thu hoạch có mùi hôi khó chịu và tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại phát triển quá mức trong ao nuôi.
Tảo – một loại thực vật phù du trong ao nuôi tôm
Trong việc quản lý hệ sinh thái ao nuôi tôm, có thể hạn chế sự phát triển quá mức của sinh vật phù du bằng cách không bón quá nhiều phân bón hoặc thức ăn dư thừa. Tuy nhiên, việc cho ăn là nền tảng cho tôm phát triển trong ao nên khó tránh khỏi tình trạng tảo lây lan trong ao. Hiện tượng nở hoa xảy ra nhiều ở ao nuôi tôm với khối lượng trên 30kg/ha/ngày, ao nuôi không sục khí. Người nuôi thường khắc phục vấn đề này bằng cách sục khí đầy đủ cho ao nuôi, đặc biệt là vào ban đêm để nồng độ oxy hòa tan trong ao luôn được đảm bảo.
Thực vật phù du là nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm. Nó cũng duy trì chu trình dinh dưỡng và dòng năng lượng trong ao, giúp quản lý môi trường nước một cách đáng kể. Họ sử dụng thức ăn thừa và chất hữu cơ từ tôm làm chất dinh dưỡng để tăng khả năng sinh sôi, sau đó giảm lượng amoniac và nitrat trong ao, hai chất có tác dụng ức chế hệ thống miễn dịch của tôm.
Động vật phù du là sinh vật nhỏ, không xương sống, là nguồn dinh dưỡng chứa nhiều axit amin cần thiết cho sự phát triển của tôm. Với đặc tính phản ứng nhanh với các tác nhân gây stress trong ao nuôi tôm, chúng là những “bộ lọc sinh học” tự nhiên giúp quản lý ao nuôi tôm, cân bằng sinh thái và chất lượng nước ao nuôi.
Động vật phù du
Giun đất (còn gọi là giun đất) là loài giun đất thuộc nhóm giun ăn phân. Chúng là một phần của hệ sinh thái ao nuôi tôm, phát triển trong môi trường chứa nhiều chất hữu cơ đang phân hủy. Giun đất chứa nhiều vitamin A, C, E và khoáng chất có lợi cho sức khỏe và sự phát triển của tôm. Chúng là thực phẩm quan trọng trong nhiều lĩnh vực chăn nuôi khác. Giun đất chứa tới 8 loại axit amin thiết yếu. Ngoài ra, cơ thể chúng còn có lượng vitamin B1, B2 khá lớn, cao gấp 14 lần bột cá và gấp 10 lần bột đậu nành.
Giun đất (còn gọi là giun đất)
Theo các chuyên gia tại Viện Môi trường nước Quốc gia, giun đất có thể làm sạch nước ao nuôi bị ô nhiễm. Khi thả vào ao nuôi tôm bị ô nhiễm, giun đất phát triển thành các rãnh nhỏ ở lớp bùn đáy ao, cung cấp lượng oxy cần thiết, từ đó kích thích vi khuẩn có lợi sinh sôi và loại bỏ chất bẩn trong nước.
Dịch giun được sản xuất từ thịt giun đất tươi, chứa nhiều vi khuẩn trực khuẩn và cung cấp dưỡng chất cần thiết cho tôm. Khi trộn với thức ăn công nghiệp, chúng kích thích tôm ăn ngon, tăng cường tiêu hóa và khả năng hấp thu chất dinh dưỡng. Từ đó, tôm có thể hạn chế các bệnh về gan, đường ruột và đạt năng suất cao hơn.
Động vật thân mềm tìm thấy trong hệ sinh thái ao nuôi tôm thường là động vật không xương sống có thân mềm và có vỏ hai mảnh vỏ để bảo vệ cơ thể. Chúng giúp lọc nước và cung cấp thức ăn cho tôm. Các loài nhuyễn thể thường thấy trong ao nuôi tôm bao gồm:
Ốc: Động vật thân mềm thuộc nhóm có vỏ hai mảnh vỏ và có kích thước lớn
Nhuyễn thể hai mảnh vỏ: Tên gọi chung cho các loài nhuyễn thể như trai, nghêu, trai, sò,… có cấu trúc vỏ hai mảnh vỏ cứng bên ngoài
Sứa: Loài nhuyễn thể không có vỏ bảo vệ, có màu sắc trong suốt
Một số loại khác: giun đũa, giun nhiều tơ, ấu trùng muỗi,…
Ngoài tác dụng có lợi đối với nước ao và tôm, nhuyễn thể còn có thể cạnh tranh oxy và thức ăn với tôm, gây ra các vấn đề về sức khỏe và làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho tôm trong ao.
Cạnh tranh thức ăn: Hầu hết các loài nhuyễn thể trong ao nuôi tôm đều là loài ăn tạp. Chúng ăn nhiều loại thức ăn trong ao, trong đó có thức ăn cho tôm. Nhiễm sắc thể quá mức sẽ cạnh tranh thức ăn cho tôm, gây thiếu hụt thức ăn, tôm tăng trưởng chậm, giảm năng suất.
Cạnh tranh oxy: Động vật thân mềm thở bằng mang và cần oxy để sống. Chúng có thể tiêu thụ nhiều oxy trong nước, làm giảm lượng oxy hòa tan khiến tôm dễ bị tổn thương trước các tác động của môi trường
Vector truyền bệnh: Các bệnh như đầu vàng, hoại tử cơ, đốm trắng,… có thể truyền từ nhuyễn thể sang tôm
Một số loài sứa tiết ra chất độc có hại cho tôm, gây ngộ độc và chậm lớn.
Một số loại nhuyễn thể hai mảnh vỏ trong ao nuôi tôm
Ký sinh trùng là sinh vật có rất nhiều trong hệ sinh thái ao nuôi tôm. Chúng sống ký sinh và làm vật chủ (tôm) để phát triển và tồn tại. Mặc dù hiếm khi giết chết vật chủ nhưng chúng là nguồn gây bệnh cho tôm, một số bệnh có thể gây nguy hiểm và gây tử vong cho tôm.
Có nhiều loại ký sinh trùng và những loại nhỏ có thể được quan sát kỹ hơn dưới kính hiển vi. Loại lớn có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Đông Á xin điểm qua một số loại ký sinh trùng tôm có thể gặp:
Khi nhiễm các loại ký sinh trùng này, gan và tuyến tụy của tôm sẽ bị nhiễm các triệu chứng sau: Gan và tuyến tụy co lại, cơ thể tôm trở nên nhợt nhạt, sắc tố melanin trong tế bào biểu bì tôm thay đổi. Kết quả là tôm tăng trưởng chậm, tăng trưởng kém và FCR (Hệ số chuyển đổi thức ăn) tăng cao.
Giun hai tế bào là loại ký sinh trùng phát triển trong ruột tôm. Chúng ký sinh trên tôm thông qua vật chủ trung gian là động vật chân đốt và động vật thân mềm. Ký sinh trùng hai tế bào gây tổn thương niêm mạc ruột tôm, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập và gây bệnh đường ruột. Kể từ đó, tôm tăng trưởng chậm và năng suất giảm
Tôm bị nhiễm ký sinh trùng
Ký sinh trùng EHP ký sinh trên tế bào biểu mô gan và ống tụy tôm. Họ sử dụng năng lượng và tiêu thụ chất dinh dưỡng ở đó. Khi tôm nhiễm EHP, màu sắc cơ thể tôm sẽ chuyển sang màu trắng đục hoặc trắng đục. Khi tôm lớn lên, màu này trở nên rõ ràng hơn. Nhiều loài động vật có cơ bắp ở phía sau và phần cuối cơ thể. Kết quả là tôm phát triển chậm và phát triển kích thước không đều.
Giun dạng giun thường ký sinh ở các cơ quan như tuyến tụy, ruột giữa và ống gan. Chúng khiến tôm chán ăn, chậm lớn và phát triển kém. Nếu tôm bị nhiễm giun ở mật độ cao có thể dẫn đến thải ra một chuỗi phân trắng (hội chứng phân trắng).
Hiểu biết về các loài động vật trong hệ sinh thái ao nuôi tôm là một trong những điều quan trọng để tối ưu hóa quy trình nuôi tôm. Từ đó, người nuôi có thể xem xét, điều chỉnh mật độ sinh vật trong ao nuôi, duy trì môi trường sống lý tưởng cho tôm.
Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học (wiki), với hơn nửa thế kỷ cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu. Ông là con trai Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, thuộc gia đình nổi tiếng hiếu học. Giáo sư giữ nhiều vai trò quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2010.
Kẽm chống ăn mòn được sử dụng phổ biến trong đời sống, đặc biệt là…
Nhiều người không phân biệt được khôn xiết hay khôn siết đúng chính tả. Cùng…
Say sưa hay say xưa hay xay xưa là ba từ thường khiến người Việt…
Tổng quan về than hoạt tính Nó là gì? Than hoạt tính, một loại vật…
Chặt chẽ hay chặt chẻ hay chặt trẽ là các cụm từ dễ gây ra…
Ngày nay, việc dọn dẹp nhà cửa trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết…
This website uses cookies.