Categories: Thơ hay

Tuyển Tập thơ Tú Mỡ – thơ trào phúng của văn học Việt Nam

Tú Mỡ là một trong những nhà thơ lớn trong nền văn học nước nhà. Với năng khiếu bẩm sinh và tự trau dồi kiến thức, làm thơ khôi hài, châm biếm, dần dần ông nổi tiếng khắp nước. Trong sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Trong bài viết này, LVT Educationxin chia sẻ tuyển tập thơ Tú Mỡ hay nhất “sống” mãi cùng thời gian. Hãy dành thời gian chiêm nghiệm bạn nhé !

Bài viết cùng chủ đề:

1. Đôi nét về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tú Mỡ

1.1 Tiểu sử

Tú Mỡ tên thật là Hồ Trọng Hiếu (1900 – 1976) là một nhà thơ trào phúng Việt Nam.

Tú Mỡ sinh ngày 14 tháng 3 năm 1900 tại phố Hàng Hòm (Hà Nội), trong một gia đình lao động nghèo ở thành thị (tiểu thủ công).

Lên 5 tuổi, ông học chữ Hán với ông nội. Khi ông nội mất, ông mới học chữ quốc ngữ với thầy giáo Quý ở phố Hàng Mành. Học được một năm, ông xin chuyển vào học trường nhà nước ở phố Hàng Bông, tiếp đến là trường ở Hàng Vôi.

Năm 14 tuổi (1914), ông đỗ đầu bằng sơ học Pháp-Việt, nên năm sau được vào học tại trường Bưởi (nay là Trung học phổ thông Chu Văn An), chung với Hoàng Ngọc Phách.

Năm 16 tuổi (1916), ông bắt đầu “mắc bệnh” làm thơ. Trong Hồi ký, ông kể lại: “…tôi quyết tâm học làm thơ. Trước hết tôi mua bộ Hán-Việt văn khảo để nghiên cứu các thể thơ ca, từ, phú, rồi mua những tập thơ của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Yên Đổ, Tản Đà, Trần Tuấn Khải, những tác phẩm mà tôi thích đọc nhất…”

Năm 17 tuổi (1917), ông bắt đầu yêu một cô gái 15 tuổi ở Hàng Bông, làm được bài thơ tình đầu tiên (theo thể thất ngôn bát cú) có tên là Tương tư, bị Hoàng Ngọc Phách chê là sáo…

Năm 18 tuổi, ông đỗ bằng Thành Chung và cuối năm đó, ông xin vào làm (thư ký) trong Sở Tài chính (Hà Nội) cho đến Cách mạng tháng Tám (1945).

Bước vào nghề “thầy Phán”, ông sáng tác được bài thơ khôi hài đầu tiên, đó là bài Bốn cái mong của thầy Phán.

Năm 1926, ông bắt đầu có thơ đăng trên Việt Nam thanh niên tạp chí, Tứ dân tạp chí.

Sau khi gặp gỡ Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), được nhà văn này phát hiện năng khiếu làm thơ trào phúng của ông, năm 1932, Tú Mỡ tham gia Tự Lực văn đoàn, rồi được cử phụ trách mục Giòng nước ngược trên tờ Phong Hóa, một tờ báo chuyên về văn chương, hài hước và trào phúng của bút nhóm này.

Tháng 12 năm 1946, chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, Tú Mỡ lên chiến khu, tham gia kháng chiến bằng ngòi bút trào phúng sở trường quen thuộc. Thời kỳ này, Tú Mỡ ký tên là Bút Chiến Đấu. Ông giải thích: Vì thấy công cuộc kháng chiến là công cuộc nghiêm chỉnh, mình dùng bút danh để đánh địch cũng là việc làm nghiêm chỉnh,…cho nên tôi không muốn dùng bút danh cũ là Tú Mỡ.

Tú Mỡ là tên đặt đùa, ý là người kế tục nhà thơ bậc thầy Tú Xương. Vả lại, hai chữ Tú Mỡ lúc này ông còn nghe gần với “đú mỡ”, có vẻ không được…nghiêm túc. Và từ nay, tôi đặt thơ vào hai mục riêng: loại đánh địch là mục “Nụ cười kháng chiến”, loại ca ngợi tinh thần anh dũng của quân dân là mục “Anh hùng vô tận”. Theo Từ điển Văn học (bộ mới), thì trong lúc kháng chiến, có lần ông bị đối phương bắt nhưng đã tìm cách thoát được.

Chân dung nhà thơ Tú Mỡ

1.2 Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Tú Mỡ:

Thơ: Nụ cười kháng chiến, Đòn bút, Ông và cháu, Anh hùng vô tận, Bút chiến đấu,…

Diễn ca, chèo, tuồng: Trung du cười chiến thắng, Tấm Cám, Nhà sư giết giặc, Dân tộc vùng lên.

Nghiên cứu: Bước đầu viết chèo.

1.3 Giải thưởng:

1951: Giải nhất về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam.

1955: Giải nhì về thơ ca của Hội Văn nghệ Việt Nam

2000: Được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II

Có thể bạn quan tâm:

2. Tú Mỡ – nhà thơ trào phúng hàng đầu của văn học nước nhà

Sống dưới ách thống trị của thực dân Pháp, làm công chức của Sở Tài chính ở Hà Nội, sẵn lòng yêu nước, Tú Mỡ nhìn thấy rõ bộ mặt của thực dân Pháp và tay sai. Ông phát huy sở trường làm thơ hài hước, đả kích kẻ cầm quyền gian ác, những quan lớn, quan bé trong bộ máy thống trị thực dân, phong kiến, phê phán các thói hư, tật xấu trong xã hội.

Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Tú Mỡ đã sáng tác một khối lượng tác phẩm đồ sộ: Gồm hơn 900 bài thơ, một số vở chèo, nhiều bài nghiên cứu, tiểu luận… với gần 3.000 trang sách. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng rất lớn qua các thời kỳ, cho đến tận ngày nay và cả mai sau.

Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nghệ sĩ hàng đầu đất nước đã viết bài tỏ lòng kính trọng, mến phục tài năng và đức độ của ông. Nhà thơ Xuân Diệu viết: “47 năm thơ không đứt đoạn, 47 năm bền bỉ, nhuần nhị, lạc quan, trẻ mãi cùng bạn đọc…

Những anh chị em làm thơ trẻ ai đã từng gặp Tú Mỡ, đã cùng trò chuyện cùng Tú Mỡ không thể quên được tấm lòng của nhà thơ đối với cách mạng, với nhân dân, với bạn bè. Hóm hỉnh mà hồn nhiên. Ðùa vui mà không ác ý, khiêm tốn, giản dị…”. 

>>>Đừng bỏ lỡ: TOP 55+ bài thơ trào phúng hay, độc đáo của các nhà thơ nổi tiếng

3. Tuyển tập thơ Tú Mỡ “bất tử” cùng thời gian

Thơ văn của tác giả Tú Mỡ cho thấy đây là một nhà thơ trào phúng xuất xắc, một bậc “thần thơ, thánh chữ”. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của tác giả Tú Mỡ chính là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình để thể hiện được nỗi lòng của mình với con người, đất nước Việt Nam.

Thơ Tú Mỡ

Khoe Lười

Anh em chớ bảo ta lười,Làm việc cho hay phải thức thời.Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,Anh em chớ bảo ta lười.

Dạy Búp Bê

Đặt con búp bê nhựaĐứng quay mặt vào tườngNguyệt làm bộ nghiêm trangLên cái giọng con cớnMắng rằng: “Con gái lớnĐã lên tám tuổi rồiMẹ dạy chẳng nghe lờiDạo này cô hư quáMẹ gọi cô không dạMẹ bảo cô mần thinhCái mặt rắn như sànhÚi chà đanh đá khiếp!Mỗi ngày có hai vệc:Bữa cơm xong quét nhàVà cứ sáng ngày raCọ rửa bộ ấm chénThế mà cô lười biếngCứ trốn như chãch thôiCô cứ để cho tôiNgày ngày phải làm hộBảo cô đã rát cổNhư nước đổ lá khoaiCó con gái nhà aiLại hư thân mất nết?Đáng lẽ tôi phải đétCho cô trận đòn đauNhưng cô đã bẹp đầuMà lại còn sứt mũiVì mấy lần ngã chúiCho nên tôi lại thươngChỉ bắt cô đứng tườngĐể thi hành kỷ luật”

Nhìn cháu nghiêm nét mặtÔng không nhịn được cườiCháu học đâu những lờiNghiêm chỉnh pha hài hướcMà đem ra bắt chướcĐể dạy cái búp bê?Nhưng được cái không chêLà từ ngày hôm đóNguyệt ta rất là nhớRựa ấm chén, quét nhàĐiều gì dạy người taChính mình phải làm trước!

Phu Kéo Xe

Xưa nay các học trò lườiMẹ cha mắng mỏ, nặng lời mỉa maiRằng: “Mày lêu lổng. rông ràiNhớn lên thời đến suốt đời kéo xe!”Bây giờ thời buổi khắt kheKéo xe cũng hoá ra nghề khó khăn!Cu ly cũng phải lấy… bằngCủa toà đốc lý chứng rằng… chính tôngLà người da sắt, xương đồngKhoẻ chân, cứng gối, vốn giòng kiện nhiDanh trong, giá sạch như liChẳng khi can án, chưa khi ngồi tùBao lần giấy, bấy lần… xuMới làm nên chức đại “phu xe hàng”Phải đâu là việc dễ dàng!

Ông Trẻ Già

Ngược đời! Có lắm hạng “ông ranh”Đạo mạo làm ra mặt lão thành!Trước mắt long lanh đôi kính trắng,Dưới cằm lún phún sợi râu xanh.Đứng ngồi khệ nệ oai nghiêm giả,Ăn nói màu mè đạo đức tuênh!Động hé môi ra là…thở hắt,Than cho thế thái với nhân tình.

Tượng Lo

A di đà Phật!Bụt trên toà ngồi ngất bệ senTưởng rằng nhà Bụt chí hiềnTừ bi từ tại, ai phiền nhiễu chi!Nào nhờ gặp thời kỳ tranh chiếnCõi phàm trần tai biến lung tungLoạn đằng Tây, loạn đằng ĐôngCảnh từ bi cũng hãi hùng, tượng lo…Cũng là bởi duyên do vạ vịtTự anh chàng họ Hít tên LeDùng dấu hiệu thực éo leTrăm nghìn vạn dấu, thiếu gì dấu hayMà lại chọn nhằm ngay chữ thậpDấu hiệu riêng nhà Phật từ biĐể sinh ra chuyện hồ nghiGiận cá chém thớt, biết thì tại sao?Chữ thập ngoặc ghép vào quốc cấmPhướn, cờ còn giấu dấm được chăngKhắc vào tượng gỗ, mần răng?Có khi bị đẽo, nên rằng… tượng lo

Mùa Xuân

Bài thơ “Mùa xuân” của Tú Mỡ

Dung dăng dung dẻDẫn trẻ đi chơiMùa xuân đến rồiÁnh xuân tươi sáng.

Đám mây bông trắngNổi giữa trời xanhGió đưa bồng bềnhCao vời lồng lộng

Vườn thênh thang rộngCỏ non xanh vờnHoa đào tươi thắmVườn xuân đầm ấmRíu rít chim ca.

Đóng Thuế Thân

Biết cơ đầu tháng tiền chưa cạnToà thuế Hà Thành rất mẫn cánGiục giã các thầy đóng thuế thânKhiến mình trong dạ đâm ngao ngán!

Ơn nhờ cái miệng mấy “ông dân”Sưu tớ năm nay gấp bộn phần:Hai chục bảy đồng, đau quá hoạn!Cắn răng nộp vậy, dám lần khân

Lấy bát họ con vừa giốc ốngGạt thầm giọt lệ đem đi cống…Làm tròn bổn phận một thằng dânCó những đoàn trùm vô sở vọng

Ngẫm nghĩ, song le cũng tự hàoDân mình há chịu kém ai sao!Tự do bình đẳng tuy thua thiệtNhưng đã bằng người cái… thuế cao!

“Sư Cậu” Đi Hát Ả Đào

Có hai “sư cậu” chùa Bà,Ăn no rửng mỡ la cà rong chơi.Tịnh chay mãi cũng chán đời,Nên sư phá giới nếm mùi phong lưu.Lần mò đến xóm hồng lâu,Ở Ngã Tư Sở, cô đầu tìm chơi.Kinh ân ái, tượng mày ngài,Sư đang tụng niệm lả lơi với tình.Ngón chầu tom chát đang xinh,Bỗng thầy chánh tổng thình lình tạt qua.Nhác trông bóng sãi kề hoa,Bạch sư hổ lửa: “Đâu mà đến đây?”Sư rằng: “Chơi gió, chơi mây,Nhỡ đường vào tạm chốn này trú chân,Rượu chay nhấp chén tẩy trần,Hát chay di dưỡng tinh thần miên man.”Thầy chánh đe giải lên quan,Lưỡng sư xanh mắt, kêu van, nằn nì.Chắp tay, rồi lạy, rồi quỳ,Sì sà sì sụp như kỳ dâng sao.Rằng: “Nay trong cuộc tiêu dao,Ma vương đưa lối lạc vào xóm hoa.Lần này chót dại xin tha,A di đà phật! Đến già xin tu!”

Các Ông Nghị Đi Xem Đồn Điền Di Dân

Người ta mời các nghị viên,Lên Yên Bái xem đồn điền di dân.Có quan Công sứ đại thần,Mới về nhà “xẹc” ân cần thết cơm.Cần thường đặc biệt An NamCỗ tuy lòng dấm, món làm cũng thơm.Nào là lòng lợn mắm tôm,Nào là bò tái chấm tương điểm gừng.Thịt dê nướng chả thơm lừng,Tiết dê pha rượu vô cùng bổ dương.Vịt hầm nhừ biến cả xương,Thịt nhồi mộc nhĩ nấm hương ngon lành.Cỗ bàn đủ cả tam sinh,Rượu ngon nhắm tốt thoả linh các ngài.Bữa nay được dịp trổ tài,Với thời khí vụng ăn thời rất hay.Của ngon thức thức sẵn bày,Bát này đĩa nọ hết bay rầm rầm!Tiệc tan khi đã triệt mâm,Mặt to tai lớn đỏ hăm hồng hào.Các ngài chếnh choáng lao đao,Ra ga bước thấp bước cao lên tàu.Bồi bàn một lũ theo hầu,Nước chanh, nước đá, chè Tầu, rượu bia.Bây giờ men ngấm hao ghê,Sẵn đồ giã rượu hả hê dạ dày.Kẻ hầu tíu tít luôn tay,Các “ông dân” cũng ngớt say tỉnh dần.Đi xem công cuộc di dân,Hẳn nhìn mọi sự bội phần lớn to.Khi về nhớ… bữa say no,Ghi lòng tạc dạ tái bò chả dê.

Cái Búp Tăng Gia

Bé ra đời trong kháng chiến,Mười ba tháng chập chững điMôi nụ hồng xinh chúm chím,Mắt nâu một mí, dài mi.Tay tròn như củ cải múp,Ngón thon như búp măng non.Ông đặt tên là cái Búp,Búp bê chạy lon ton.Búp đã bắt đầu cai sữaMẹ sắp chỉnh huấn phương xa,Bồng bế Búp về tạm ởHú hí với ông cùng bà.Trên đồi thấy ông hì hụiNgày ngày vỡ đất tăng giaNgô, khoai, sắn, rau, dứa, chuối,Thêm thặt thức ăn trong nhà.Búp cũng lăng xăng bắt chước,Sơm sớm theo ông ra đồiTay nâng không nổi cái cuốc:– “Cháu cũng tăng gia, ông ơi!”– “Búp tăng gia gì?” – ông hỏiBúp ta lém lỉnh trả lời– “Ông ạ, cháu tăng gia chuốiCháu lại tăng cả gia… xôi”Ông ngắm cháu ngoan loắt choắt,Phủi tay, hôn cháu, cả cười:– “Ông chịu con nhà láu thật!Tăng gia toàn thứ thích xơi”Hôm sau, ông ra lò chợĐánh một cái cuốc con conCho “cô nông dân” bụ bẫmSáng sáng theo ông làm vườn…

Thương Ông

Bài thơ “Thương ông” của Tú Mỡ

Ông bị đau chânNó sưng nó tấyĐi phải chống gậyKhập khiễng, khập khàBước lên thềm nhàNhấc chân quá khóThấy ông nhăn nhóViệt chơi ngoài sânLon ton lại gần,Âu yếm, nhanh nhảu:“Ông vịn vai cháu,Cháu đỡ ông lên.”

Ông bước lên thềmTrong lòng sung sướngQuẳng gậy, cúi xuốngQuên cả đớn đauÔm cháu xoa đầu:“Hoan hô thằng bé!Bé thế mà khoẻVì nó thương ông.”

Đôi mắt sáng trongViệt ta thủ thỉ:“Ông đau lắm nhỉ?Khi nào ông đauÔng nhớ lấy câuBố cháu vẫn dạyNhắc đi nhắc lại:– Không đau! Không đau!Dù đau đến đâu,Khỏi ngay lập tức.”

Tuy chân đang nhức,Ông phải phì cười:“Ừ, ông theo lờiThử xem có nghiệm”Ông bèn nói liền:“Không đau! Không đau!”Và ông gật đầu:“Khỏi rồi! Tài nhỉ!”Việt ta thích chí:“Cháu đã bảo mà…!”Và móc túi ra:“Biếu ông cái kẹo!”

Hát Sẩm

Anh thì hào, anh thì hàoChúng anh xưa cũng mặt anh thì hàoCũng phường tai mắt, anh nào có chịu kém ai!Cung cách phong lưu, anh cũng đủ mùi đờiChỉ còn thiếu nỗi, lên trời trọc tiênKể từ ngày thế sự đảo điênLàm cho anh dơ cả mắt, hoá cho nên anh phải hoá mùNgước cái con ngươi, anh chỉ thấy cái bóng lù lù…Cuộc đời xoay chuyển, anh vẫn ù ù, minh minhNgười ta thời tiến bộ cạnh tranhMà anh đây chẳng biết ánh sáng văn minh nó ra thế nàoSố phận nhá nhem, song le anh vẫn tự hàoNợ đời lo trả, há nào thua ai!Nghiệp sẩm soan thế mà có ích cho đờiTay đàn, miệng hát, anh giúp người thêm vuiAnh thẹn cho phường con mắt chẳng đuiÚa sương nặng thịt, chỉ ngồi dồi ăn dưngAnh lại thương cho phường con mắt tráo trưngThấy của đời, than ôi! tối mắt [?] lăn lưng vơ quàngChưng anh đây danh lợi chẳng màngSuốt đời ca hát, sường tràn hơn tiênCó cóc ra gì cái thời buổi bạc đenAnh chẳng thèm mở mắt để bon chen vì tiềnĐược cái thảnh thơi, quan bất nhiễu, dân bất phiền…

Cháu Là Thanh Niên

Thằng Sơn lên bảy tuổiBé nhất nhà chon nênÔng yêu ông gọi nựngLà thằng Ẻm thằng EmTình nó cũng ngoan ngoãnNhưng láu lỉnh ngang nhiênNhiều “lý do lý trấu”Để bênh vực lẽ riêng.

Trời nổi gió đông bắcÔng kêu gọi thằng Em:– “Mau lấy áo len mặcKẻo cảm lạnh ho hen”Thằng Em liến thoắng đáp:– “Cháu đang thấy nóng điên”– “Nhưng ông thấy trời lạnhBảo cháu phải nghe lời”– “Ông già ông sợ lạnhCòn cháu là thanh niên”

Ồ thanh niên lên bảyThằng bé nói dị kỳÝ chưng muốn nhảy vọtQua giai đoạn thiếu nhi?– “Tốt lắm! Nhưng ông hỏi:Đã ba sẵn sàng chưa?”– “Chưa! Cháu chưa đến tuổiLà thanh niên nhận vờ”– “Bây giờ nghe ông bảoThanh niên hãy xung phongChống lạnh mặc thêm áo”– “Sẵn sàng vâng lời ông!”

Còn Say

“Nhắn bác Tản Đà”

Đã lâu, bác mới ra đời,Tưởng rằng gột óc theo thời duy tân.Nào ngờ bác vẫn say lăn,Lè nhè vẫn giọng thơ văn trái mùa.Vẫn còn mộng mị, mơ hồ,Người đời vui sống, bác ngờ chiêm bao,Người đời hoạt động xôn xao,Bác vờ triết lý thanh cao: bác lười!Ngồi dưng nổi bệnh chán đời.Bác buồn trời gió, rồi trời lại mưa!Giải buồn chén tít say sưa,Chai con chai bố vẫn chưa hết buồn!Rượu vào, rồng rổng thơ tuôn,Miệng ngâm sặc sụa hơi cồn, mùi men,Bác rằng: khách tục bon chen,Lao tâm, lao lực, thấp hèn bác thương.Đời rằng: bác dở, bác ương,Giả danh ẩn dật là phường bỏ đi.Bác rằng: chữ thọ quí chi.Lợi, danh, hão cả! Ham gì sống dai?Đời rằng: thuận với lẽ trời,Sống mà gánh vác việc đời mới hay.Còn như sống để mà… say.Hỏi ai vất vưởng bấy nay làm gì?Rung đùi, rượu nốc tì tì,Người ta tỉnh, bác li bì vẫn mê!

Vậy là các bạn vừa được tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Tú Mỡ cùng tuyển tập thơ Tú Mỡ “bất tử” cùng thời gian. Hi vọng, sau khi chia sẻ cùng bài viết bạn có thêm nhiều trải nghiệm khó quên. Cảm ơn các bạn đã đồng hành cùng bài viết. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết sau !

>>>XEM THÊM: TOP 55+ bài thơ Tú Xương (Trần Tế Xương) “bất tử” cùng thời gian

Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là nhà khoa học hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực vi sinh vật học (wiki), với hơn nửa thế kỷ cống hiến cho giáo dục và nghiên cứu. Ông là con trai Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân, thuộc gia đình nổi tiếng hiếu học. Giáo sư giữ nhiều vai trò quan trọng như Chủ tịch Hội các ngành Sinh học Việt Nam, Đại biểu Quốc hội và đã được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 2010.

Share
Published by
Nguyễn Lân Dũng

Recent Posts

Trông chờ hay chông chờ đúng chính tả? Nghĩa là gì?

Trông chờ hay chông chờ đúng chính tả vẫn là phân vân của nhiều người…

60 phút ago

Bạt nuôi tôm công nghiệp là gì? Các loại bạt dùng trong nuôi tôm

Ao nuôi tôm bằng bạt là mô hình được áp dụng phổ biến ở Việt…

1 giờ ago

Giãy dụa hay giãy giụa đúng chính tả? Nghĩa là gì?

Giãy dụa hay giãy giụa đúng chính tả tưởng chừng đây là một câu hỏi…

2 giờ ago

Tiêu chuẩn nước máy sinh hoạt mới nhất tại Việt Nam

Nước máy, nước sạch đang dần thay thế cho nước giếng khoan trên mọi vùng…

2 giờ ago

Rò rỉ hay Dò rỉ đúng chỉnh tả? Nghĩa là gì?

Rò rỉ hay Dò rỉ là hai từ dễ bị nhầm lẫn bởi phát âm chữ…

3 giờ ago

Sử dụng nước mưa có tốt không? An toàn hay độc hại?

Từ xa xưa, con người đã sử dụng nước mưa để uống và sinh hoạt.…

3 giờ ago

This website uses cookies.